Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2012

PHẢN BIỆN? PHẢN BIỆN XÃ HỘI?


CÒN LÂU LẮM!



Đương nhiên, một xã hội chậm phát triển là một xã hội thiếu nhiều ... cơ sở cho sự phát triển. Trong đó, không thể không nhắc tới “Phản biện” nói riêng và “Phản biện xã hội” nói riêng. Thậm chí đây còn là một tiền đề tối quan trọng trong việc mãi dẫm chân dưới vũng lầy hay cất cánh bay lên.



Bài viết này xin mạo muội nêu lên một giả thuyết, lý giải tại sao ở nhiều quốc gia, đã từ lâu Phản biện là một phần không thể thiếu trong cuộc sống thì tại Việt Nam, nó vẫn là một khái niệm xa xỉ của đa số trí thức, đừng nói là nhân dân.
Hãy bắt đầu từ câu chuyện văn hóa. Tại Châu Âu, người ta chấp nhận đánh đổi mọi thứ để đi tới tận cùng chân lý. Copecnic chống lại nhà thờ với thuyết “Nhật tâm”, “Nguồn gốc các loài” của Darwin giúp khoa học thêm một cách nhìn mới về lịch sử tiến hóa của loài người.  K. Marx với câu nói “Hạnh phúc là đấu tranh”, ông tổ của học thuyết Cộng Sản này đã đưa ra hệ thống lý luận nhằm phản biện, bác bỏ những giá trị cơ bản của Chủ nghĩa Tư Bản. Chưa biết đúng sai thế nào nhưng chắc chắn khiến phần bên kia của thế giới buộc phải điều chỉnh lại. Xã hội nói chung tốt đẹp hơn lên.
Còn tại Việt Nam, “Lời nói chẳng mất tiền mua – Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” có tức quá thì cũng cố mà an ủi “Chín bỏ làm mười”. Sống xuê xoa, hòa thuận, thà chấp nhận sống chung với khuyết điểm còn hơn là nỗ lực tìm hiểu, cải tạo đối tượng.
 Lại có đứa bé 5 tuổi nhất định đòi cha nó phải giữ lời hứa từ tuần trước, là chủ nhật này đưa cả gia đình đi chơi Thảo cẩm viên. Oái oăm thay, người bố lại coi việc tụ tập, bù khú với bạn bè trong ngày nghỉ quan trọng hơn là giữ lời với con trẻ. Thế là ông mắng “Im ngay! Để tao nói mẹ mày ra chợ mua đền cho món đồ chơi!”. Nó vẫn không chịu.
A! Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư!... Thế là thằng bé bị nọc ra tặng cho mấy con lươn vào mông đít. Lần này nó xin tha rối rít để tránh bị ăn thêm đòn chứ chẳng còn chút ý kiến ý cò gì về việc đi sở thú nữa, và thấy mong muốn ấy là một sai lầm khiến phải mang vạ vào thân.
Văn hóa ứng xử tại Việt Nam cơ bản là:  Sẵn sàng hùng hổ hành động khi ai đó va chạm xe cộ nhè nhẹ với ta nhưng thường làm ngơ trước thiệt thòi lớn của cộng đồng nếu sự thiệt thòi ấy không trực tiếp ảnh hưởng tới quyền lợi của mình.  Người trẻ buộc phải nghe người già, kẻ dưới tự nguyện với người trên, mặc nhiên coi những phát biểu của bậc đi trước là “chân lý”.
Thế mới có chuyện cả nghìn năm nay, chúng ta coi đạo Nho là khuôn vàng thước ngọc mà chẳng thèm để ý đến những tì vết dù là nho nhỏ trong cái hệ thống lung linh ấy.
 Cho mãi tới thời đại ngày nay mới mang máng nhận ra sự bất hợp lý, ví như cổ vũ chế độ độc tài (Vua là con trời), ủng hộ lối học tầm chương trích cú, hay khuyến khích lối ứng xử mang nặng tính bất bình đẳng giới (Trọng nam khinh nữ), v...v...
Trở lại với câu chuyện trên, giả sử đây là trường hợp xảy ra tại một quốc gia phương Tây, chắc chắn người hạ roi xuống đứa trẻ sẽ phải lo sốt vó, vì biết đâu chừng, thằng nhóc lại nhấc điện thoại lên nhờ cảnh sát can thiệp vào hành động trấn áp vô lý của người sinh ra nó.
Câu chuyện về Văn hóa lại kéo theo câu chuyện về Giáo dục. Một nền học mà cái “danh” nhiều hơn cái thực chất đã khiến cho nhà trường đôi khi lại trở thành cha mẹ của các bậc phụ huynh có con em từ lớp Chồi tới bậc Tiểu học. Để khi xin được cho chúng nó vào trường rồi thì lại muốn “Con của tớ là đứa học giỏi nhất nhì lớp”. Mà trong muôn ngàn cách lấy thành tích học tập thì việc ngoan ngoãn nghe lời giáo viên vẫn là một “tiểu xảo” phổ biến. Lâu dần, “tiểu xảo” ấy mặc nhiên được chấp nhận như là một dạng của thiết chế.  – Thầy đã nói thì cấm có sai!
Thế là tiếng nói độc lập của cá nhân khi còn trẻ lại bì vùi thêm một lớp sóng nữa.
Được biết, sự hình thành một nhân cách phụ thuộc rất nhiều vào quá trình Xã hội hóa của cá nhân giai đoạn còn nhỏ tuổi. Ở Thụy Điển, người ta coi đây là “Thời kỳ vàng của cuộc đời”. Tại Nhật Bản, học sinh đến trường tưởng chơi nhiều mà hóa ra lại học chất lượng, từ mỗi trò nghịch ngợm mà các em tự xây dựng tư duy và cách tiếp nhận kiến thức cho riêng mình để không trở thành bản sao của ai hết,...
Do vậy, hình thành hay không hình thành tư duy phản biện cũng manh nha từ lứa tuổi này.
Bức tranh giáo dục nước nhà vốn đã ảm đạm nay còn bị tô điểm thêm những sắc màu đen tối. Ấy là hiện tượng nhiều SV giỏi ra trường chưa chắc đã có việc làm tốt còn những chàng dốt nhưng nhà to, thế lớn – tức “Vốn xã hội” hơn hẳn thì lại băng băng trên đường hoạn lộ. Nỗi bất công ấy đã thành một thứ luật bất thành văn nên chẳng mấy người thèm mở miệng, hoặc do mở mãi mỏi cả hàm mà đâu thấy suy chuyển gì nên đành dằn lòng chịu đựng.
Văn hóa Việt Nam, Giáo dục Việt Nam góp phần tạo nên xã hội Việt Nam. Một xã hội mà “câu chuyện cơ chế” luôn là một đề tài nóng hổi.
Trong nhiều trường hợp, đường lối của nhà nước (có thể) đúng đắn nhưng cấp thi hành lại thực hiện ngả nghiêng. Bởi họ không có hay không dám cất lên tiếng nói phản biện công khai nên chỉ dám “bày tỏ ý kiến” thông qua việc chui qua những lỗ hổng của cơ chế để làm lợi cho bản thân. Câu khẩu hiệu “Phê bình, tự phê bình” chúng ta nghe đã quá quen song thử hỏi có mấy tổ chức hay cá nhân làm tốt? Bởi nền văn hóa và kinh nghiệm trong môi trường giáo dục trước đó đã cho họ những “con đường” ứng xử rồi.
Gần đây, có ông lãnh đạo thành phố Hải Phòng đã cất tiếng nói phản biện cả báo chí lẫn ý kiến của chính phủ. Có người nói ông dũng cảm vì bảo vệ cấp dưới, lại có người nói ông dũng cảm với suy nghĩ của chính ông, rằng: Trước các cụ hưu trí, những người gần đất xa trời, lẩn thẩn hết cả rồi thì nói gì mà chẳng được!
Ông làm thế bởi che chắn cho cấp dưới hay vì có lý do để khẳng định cả báo chí lẫn chính phủ đều sai? Phải chăng đây là một ngoại lệ? Tôi cho rằng không! Vì một lỗ hổng nào đó của cơ chế khiến vị này sẵn sàng đánh một “Canh bạc phản biện”  - Được thì ăn, thua thì cùng lắm làm... kiểm điểm.
Ở đây, “cơ chế” đã tiếp tay cho ông làm liều.
Vậy là...
Nếu như trên thế giới, người ta coi bậc Trí thức sinh ra để nghiên cứu, sáng tạo, hoài nghi khoa học và phản biện xã hội thì tại Việt Nam, hình như phần nhiều các trí thức chỉ bắt đầu học cách phản biện (bức xúc thì đúng hơn) khi thôi làm quan chức.
Vì cơ chế này không khuyến khích họ đánh đổi giữa những ham muốn cá nhân và lợi ích cộng đồng.
Đương nhiên, một xã hội muốn phát triển phải cần rất nhiều yếu tố, song không thể không có sự song hành của “Phản biện” nói chung và “Phản biện xã hội” nói riêng. Khi nào để điều đó không còn là một khái niệm xa xỉ tại Việt Nam? Như trên vừa nói, với nền văn hóa ấy, với đặc điểm giáo dục này, với cơ chế hiện tại,... Hãy còn lâu lắm.!
Hi vọng lắm thay nhận xét vừa rồi chỉ là võ đoán.

          (Nói thêm: Bài này tôi gửi và đã đăng trên tuanvietnamnet với tiêu đề “Phản biện xã hội và lối sống tiểu xảo” - http://www.vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/61655/phan-bien-xa-hoi-va-loi-song--tieu-xao-.html
Sau khi xem bài, tôi lại muốn bổ sung thêm chút nữa để hoàn thiện hơn theo suy nghĩ của tôi)
Trần Anh Tuấn

Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

TÌNH YÊU VỚI LUẬT?



Thông thường, có hiểu nhau thì mới yêu nhau được. Nhưng trong trường hợp này, theo tôi là chẳng mấy biết nhau nhưng vẫn ra rả ca ngợi niềm hạnh phúc vì được sống trong nhau.

Bàn về Pháp luật nước nhà có lẽ là hơi thừa bởi đã được nói tới quá nhiều, chỉ xin có vài lời nhận xét về thái độ ứng xử với luật pháp của dân ta. Lượm lặt một vài vụ chưa hẳn là điển hình cũng thấy vô số chuyện để phân vân.
Khi tiếng súng Đoàn Văn Vươn vừa vang lên, chân dung ông chủ đầm tôm này được đa số báo chí trong nước vẽ nên như là một tên đồ tể máu lạnh, chỉ biết lợi ích cá nhân, ngồi xổm lên chính quyền  mà phì phèo thổi khói vương trên đầu nòng súng đạn hoa cải. Ông giám đốc công an Hải Phòng tô điểm thêm vào bức tranh sinh động những mỹ từ hoành tráng trong cuộc đột kích, cưỡng chế quyền lợi người dân, tung hê thành tích, coi đó như “Một trận đánh đẹp!” và đề nghị đưa vào trong giáo trình để cán bộ, chiến sĩ học tập,...
Cho tới khi dư luận ồn lên, nhân sĩ trí thức đặt câu hỏi, tướng Lê Đức Anh lên tiếng, người đứng đầu chính phủ vào cuộc,... thì gió lại đổi chiều. “Kẻ côn đồ” với những hành xử “Giang hồ” nghiễm nhiên trở thành một “Anh hùng” cũng nhờ báo chí..
Người nông dân chăm chỉ ấy hiện đang trả giá cho hành động bất khuất của mình sau song sắt. Nhà cửa bị san phẳng, đến túp lều mới dựng của vợ con lại cũng vừa bị bọn nào đó đập phá
Làm “Anh hùng” sau khi vác súng chống lại lực lượng vũ trang của chính quyền, lại đẩy một số “đầy tớ” về vườn, buộc phải làm thân “ông chủ” thì một túp lều chứ đến ba bốn cái “chòi canh cá” dựng lên lại bị phá là vẫn còn ít.
Nhưng bà con đã mãn nguyện với kết luận của Thủ tướng nên chẳng mấy để tâm tới kẻ nào đã bình định chốn chui ra chui vào của thân nhân người hùng nữa.

(Cái túp lều dựng tạm lại cũng bị "bình định")


Chuyện thứ hai, ấy là việc một công dân yêu nước phạm tội “Trốn thuế”.
Bloger Điếu Cày tức nhà báo Nguyễn Văn Hải, người hăng hái trong phong trào xuống đường biểu tình chống bành trướng Trung Quốc, tố cáo âm mưu gặm nhấm giang sơn một cách ti tiện của kẻ láng giềng nham hiểm này. Sau khi hết thời gian chấp hành án phạt tù thì bỗng nhiên anh Hải... mất tích. Và chính quyền cũng chẳng thèm giải thích. Một công dân mất liên lạc những gần nửa ngàn ngày (16 tháng) ấy vậy mà việc tìm anh chỉ xôn xao ... bên ngoài lãnh thổ, nhờ những tờ báo nước ngoài.
Tưởng như lòng yêu nước và cái tội hình sự kia là 2 khái niệm chẳng liên quan gì tới nhau. Vậy mà dường như nó lại có mối quan hệ nhân quả khá rõ ràng.
Chợt nhớ tới Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ. Ông Vũ bị công khai truy tố và kết án bởi tội danh tuyên truyền chống phá nhà nước sau một vụ khám xét nhà nghỉ bất ngờ của công an, từ đó, các chiến sĩ thu giữ được 2 cái dụng cụ tránh thai dành cho cánh đàn ông. Có người nói vui: Con đường gán Tiến sĩ Vũ vào điều 88 BLHS của nhà nước bắt đầu từ manh mối 2 bao cao su.
Phải chăng trốn thuế và quan hệ không lành  mạnh là 2 trong số hệ thống những lý do nhằm đảm bảo cho dân tình không quá xôn xao?



Vụ thứ 3 cũng ly kỳ chẳng kém.
Những tưởng khái niệm “Án cao su” đã bị khai tử từ những năm 90 của thế kỷ trước, thế mà nay nó lừng lững quay lại rồi đổ ập xuống số phận mong manh của người phụ nữ yếu ớt Bùi Thị Minh Hằng.
Được biết, đây là một thứ “Án chung thân không chính thức” mà các văn bản thường gọi là “Tập trung cải tạo”. Trước kia, nó là nỗi ám ảnh của những “quái tù” sừng sỏ nhất. Không có quan tòa tuyên, cũng chẳng có thời gian cụ thể, người ta dí cho anh một lệnh “Tập trung cải tạo” vài ba năm, sau đó “xét thấy” anh có tiến bộ thì tha, còn nếu ngứa mắt hoặc chưa vừa lòng lại ban cho một chữ ký thêm lệnh nữa, lệnh nữa,... Thế là anh đành ngậm ngùi nói lời chào khoảng trời tự do để tiếp tục công cuộc cho sứ mệnh của “Cục Lao Cải” – Cục Lao động, cải tạo.... Từng có những người cả ¼ thế kỷ sống kiếp “Cơm cân, áo số” mà chẳng rõ mình mang tội danh gì.
Chị Hằng tham gia bày tỏ chính kiến chống Trung Quốc (Lại Trung Quốc) thể hiện một tinh thần yêu nước nồng nàn, chị giương cao khẩu hiệu “Phản đối đàn áp người ủng hộ Quốc hội ra Luật biểu tình” là quyền đương nhiên có của công dân một nước dân chủ. Việt Nam luôn nhận phần “Dân chủ” về mình mà chẳng hiểu cớ gì lại dúi bản án cao su vào tay người phụ nữ yêu tự do, thừa lòng tự tôn dân tộc ấy?




Tôi hơi dài dòng như thế chỉ để sơ sơ một vài nhận xét về thái độ ứng xử với luật pháp của người dân trong nước.
Chuyện thứ nhất, cà xã hội đều quan tâm. Hiện tượng Đoàn Văn Vươn như một ngòi nổ cháy vào thùng thuốc súng đầy bức xúc trong tâm lý đại chúng về vấn nạn tham lam, cửa quyền, độc đoán, dối trá, bao che lẫn nhau,... của một bộ phận luôn tự hào vì trên ngực có thẻ “Đầy tớ”. Người ta mổ xẻ nhiều văn bản sai quy định chưa hẳn vì có thừa tinh thần thượng tôn pháp luật. Mà dường như việc dẫn ra những căn cứ pháp lý này với mục đích bác bỏ những quyết định kia, như đã nói, nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý ghét lũ sâu mọt mà thôi.
Bởi, với câu chuyện thứ 2 và thứ 3 thì chỉ có một số ít nhân dân chú ý. Nếu trong một quốc gia mà đa số công dân nắm vững luật pháp, hiểu những quyền lợi chính đáng dành cho riêng mình, dành cho cộng đồng mình, cũng như ra sức bảo vệ tới cùng những tổn thương mà luật pháp bảo vệ mình ấy có thể gặp phải thì chắc chắn việc một cá nhân bị chính quyền phong tỏa trái luật hơn năm trời hay việc cũng chính quyền đưa ra quyết định tập trung vô thời hạn trong một nhà nước “Pháp chế XHCN” là không thể chấp nhận. Báo chí phải vào cuộc, công luận sẽ đòi câu trả lời. Chứ không phải im re, khiêm tốn nhường sự thắc mắc cho các cơ quan thông tấn bên ngoài lãnh thổ
Chỉ mong không phải là vì lý do công dân Việt Nam quá hiền lành, bàng quan ngay cả với những quyền cùng lợi ích chính đáng được pháp luật quy định, mà ở nguyên nhân báo chí nước nhà kém cỏi, không làm tốt chức năng cung cấp thông tin (tôi không cho là bị quản lý) khiến cho chẳng mấy người biết mà đòi hỏi.
Tuy nhiên, một nhà nước của dân, do dân và vì dân mà “Dân” lại thờ ơ ngay cả với thứ mình đang sở hữu thì thật đáng phải suy nghĩ.

Trần Anh Tuấn

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

TỪ BỎ


LẠI MỘT CUỘC CÁCH MẠNG LÙI

Nghịch lý là ta sinh ra nó, tôn thờ nó để rồi nó quay lại vụt vào mặt ta một cú đau điếng, bóp nghẹt trái tim ta nhức nhối, vùi ta ngập ngụa trong vũng lầy thất vọng... Thế mà cho tới bây giờ ta vẫn muốn có nó.



Từ việc nho nhỏ như cai thuốc lá tới việc lớn hơn là tự kết liễu cuộc đời mình, đó là những sự từ bỏ mà đa số chủ thể của những hành động ấy không cảm thấy tiếc nuối.
Còn có một sự chia tay luôn để lại trong lòng người những trăn trở, dằn vặt, thậm chí đau đớn. Nó vô hình nhưng tất cả sức nặng của bao nhiêu ngậm ngùi, tức tưởi, nhức nhối, khổ sở lại hữu hình hằn sâu lên đôi mắt của đời người mỗi khi ngước mắt lên nhìn trời, dõi về phía xa xăm và nhớ về nó. Tôi tạm gọi đó là sự từ bỏ những giá trị.
Anh A đành dang dở giấc mơ vào đại học vì hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn.
Chị B tan vỡ mộng giai nhân khi trong lúc vui đùa bị con chó phản chủ táp cho một cái trúng mũi
Ông C trước khi nhắm mắt vẫn tự trách mình không dám theo đuổi tới cùng một mối tình nên thơ thời trai trẻ.
..v....v...............
Vì hoàn cảnh cuộc sống, vì tình thế xã hội, vì năng lực bản thân,... Không phải ai cũng thực hiện được những mong ước của mình. Lý tưởng khi đã lập trình mà không thể thực hiện có khác gì một cánh chim trời ủ rũ, buồn bã và gục ngã trong hằn học bởi cái lồng sắt lạnh lùng, kiên cố đâu?. Và cánh chim ấy coi khoảng không gian cao rộng ngoài kia là một giá trị cao vời để rồi dẫu không muốn nhưng cũng phải chiêm chiếp cái mỏ buồn tủi mà hót lên giai điệu chia tay.
Trong tác phẩm “Đời thừa”, nhà văn Nam Cao đã vẽ lại quá trình chia tay vừa âm thầm vừa đau đớn của nhân vật Hộ với ước mơ được đoạt giải Nobel của mình. Hộ muốn làm nghệ thuật chân chính nhưng lại buộc phải sáng tác những tác phẩm cẩu thả bởi sự thúc ép của manh áo, miếng cơm. Tôi coi đây là một trong nhiều điển hình của nỗi cay đắng, buộc phải gói gém ước mơ, cẩn trọng gói ước mơ lại, cài thêm hoa, tô thêm phấn, rồi từ từ thả nó vào thùng rác.
Đời người là quá trình thay đổi vị trí giữa các giá trị. Đứa bé mới sinh luôn cần bầu vú mẹ, khi chập chững, giá trị của nó là cái kẹo hay cây kem. Lớn lên một chút nữa thì đồng tiền mới là thứ có ý nghĩa hơn. Rồi tình yêu, sự nghiệp, danh vọng,.... Cho tới khi ngửi thấy mùi thơm thơm của đất thì một viên kẹo của đứa cháu nội dúi vào bàn tay nhăn nheo đôi khi lại mang một giá trị vô cùng lớn đối với cá nhân ấy.
Tuy mỗi giai đoạn cuộc sống luôn có sự thay đổi vị trí các giá trị như đã nói ở trên, nhưng có một thứ giá trị cơ bản, hầu như bất biến, luôn luôn hiện hữu trong tư tưởng dẫu trong bất cứ thời kỳ nào. Giá trị ấy, như đã nói, tôi gọi là lý tưởng.
Mỗi người mỗi lý tưởng, khó ai có thể sống mà không lý tưởng. Hiện thực hóa lý tưởng là hạnh phúc lớn nhất của cá nhân. Ngược lại, đó là bi kịch dai dẳng kéo dài, cho tới khi con cháu tề tựu đông đủ phủ lên mắt một chiếc khăn mùi xoa mà hãy còn nuối tiếc, hậm hực lắm lắm
Nghịch lý là, những giá trị ấy, ta sinh ra nó, nuôi dưỡng nó, tôn thờ nó để rồi nó quay lại vụt vào mặt ta một cú đau điếng, bóp nghẹt trái tim ta nhức nhối, vùi ta ngập ngụa trong vũng lầy thất vọng. Thế mà bây giờ ta vẫn muốn có nó. Và nó càng trở nên đáng thèm muốn hơn, đẹp đẽ hơn, lung linh hơn khi ta bắt đầu biết chẳng thể nào chiếm hữu được nó.
Đành thôi chia tay. Chia tay theo nghĩa của một cánh chim vẫn hướng về bầu trời dù không thể thoát lồng.
Lại một đêm này ta với ta
Trà lạnh, trăng suông, bóng nhạt nhòa...
Thôi nhé! lý tưởng của ta, ước mơ của ta, hãy cứ càng trong trẻo, lung linh và đẹp đẽ hơn nữa nhé. Vì dường như ta đang kết thúc nỗ lực với ngươi rồi.
Trần Anh Tuấn.